Quá trình hình thành Thiền uyển tập anh

Về tác giả

Theo một số nhà nghiên cứu trước đây, thì Thiền uyển tập anh do một người đời Trần biên soạn. Sách Đại Việt thông sử (thiên "Nghệ văn chí", ở loại truyện ký) của Lê Quý Đôn chép:

Thiền uyển tập anh, một quyển, người đời Trần soạn, ghi tông phái Thiền học và sự tích các nhà sư nổi tiếng ở nước ta từ đời Đường, Tống, trải đến các đời Đinh, , , Trần[2].

Sách Lịch triều hiến chương loại chí (ở phần "Văn tịch chí") của Phan Huy Chú chép:

Thiền uyển tập, 6 quyển. Người đời Trần soạn. Ghi chép sự tích, và tông phái về thiền học của nước ta, từ cuối đời Đường, qua các đời Đinh-Lê đến đời Lý-Trần [3]

Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu gần đây, thì người khởi soạn rất có thể là Thông Biện (? - 1134), một thiền sư thời thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, đã được vua Lý Nhân Tông phong Quốc sư, và là người có nhiều sở trường về sử học và biết nhiều về lịch sử truyền bá Phật giáoViệt Nam.

Trong Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập I), GS. Nguyễn Lang, đã trưng ra hai bằng chứng như sau:

  • Khi trả lời hoàng hậu Ỷ Lan, thiền sư đã nói về lai lịch của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi một cách khá rõ rệt.
  • Trong Thiền uyển tập anh có đoạn nói về thiền sư Thần Nghi (? - 1216) như sau:
Thiền sư Thần Nghi thưa (với thiền sư Thường Chiếu): "Con theo phụng sự hòa thượng đã lâu nhưng chưa rõ những nhân vật nào đã truyền thừa đạo này đầu tiên, xin hòa thượng chỉ bày cho con những thế hệ đã truyền thừa khiến cho học giả biết được nguyên lưu của mình". Thường Chiếu (? - 1203) thấy thái độ khẩn thiết ấy đưa cho Thần Nghi xem một tài liệu của Thông Biện trong đó có ghi chép về các tông phái và sự truyền thừa của các thế hệ. Thần Nghi đọc xong hỏi: "Tại sao hai hệ phái Nguyễn Ðại Ðiên và hệ phái Nguyễn Bát Nhã [4] không được chép vào đây?" Thường Chiếu trả lời: "Thông Biện đã suy nghĩ kỹ rồi mới không chép hai hệ phái ấy"...

Căn cứ hai chứng cứ trên GS. Nguyễn Lang đã quả quyết rằng chính thiền sư Thông Biện là người bắt đầu biên tập Thiền uyển tập anh. Sau đó, tập tài liệu này truyền qua các thiền sư là Ðạo Huệ (? - 1073), Minh Trí (? - 1196), Thường Chiếu, Thần Nghi (? - 1216) và cuối cùng là Ẩn Không (? - ?). Và cũng theo giáo sư, chắc hẳn là mỗi vị khi nhận được sách đã ghi chép về những gì mình nghe thấy về đạo Phật trong thời đại mình. Vậy ta có thể kết luận là tác giả "Thiền uyển tập anh" gồm nhiều người, trong đó những vị sau đây là quan trọng nhất: Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi và Ẩn Không [5].

Tương tự, trong Lời Tựa cho lần in năm 1990, Thượng tọa Thích Thanh Tứ cũng đã viết rằng: Tuy cuốn Thiền uyển tập anh không ghi rõ tên soạn giả, nhưng qua các tài liệu tham khảo chúng ta có thể xác định tác phẩm này đã được ngài Thông Biện thiền sư khởi thảo từ thời đến ngài Biện Tài, Thường Chiếu, Thần Nghi... Trải qua một quá trình biên soạn rồi đến thiền sư Ẩn Không là người hoàn tất việc biên soạn cuối cùng [6].

Thiền sư Ẩn Không, trong Thiền uyển tập anh không có truyện, nên không biết gì về ông. Tuy nhiên, nhờ một câu chú thích do người sau thêm vào sau truyện Thiền sư Thần Nghi, mà biết được ông là người ở tại Lượng Châu, huyện Na Ngạn (khi ấy bao gồm miền đất thuộc Lục Nam, Lục Ngạn và một phần huyện Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang ngày nay), nên còn được đời gọi là Na Ngạn đại sư, thuộc thế hệ thứ 14 của phái thiền Vô Ngôn Thông. Ông được thầy trao truyền tập sử liệu vào năm 1216. Đến năm 1225, nhà Trần thành lập. Rất có thể sau năm này ông hoặc đệ tử của ông cho khắc in Thiền uyển tập anh (hoàn thành từ tập sử liệu vừa kể), cho nên Lê Quý ĐônPhan Huy Chú đều chép là "do người đời Trần soạn"[7].

Về văn bản

Không rõ Thiền uyển tập anh được khắc in lần vào năm nào, chỉ biết rằng đến đời vua Tự Đức chỉ còn bản trùng san (khắc in lại) do hòa thượng Thích Như Trí và các môn đồ khắc in ở chùa Tiên Sơn (Từ Sơn, Hà Bắc; nay thuộc Bắc Ninh) vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) đời vua Lê Dụ Tông.

Và cũng vì bản in này "trong đó có nhiều chỗ lầm từ chữ này sang chữ nọ, sai lầm khó đọc ra chữ gì" (Tựu trung lỗ ngư bất nhất, vận suyển san danh"), nên lúc bấy giờ có hòa thượng Thích Phúc Điền ở Bồ Sơn (Bắc Ninh) đã ra công hiệu chỉnh, làm thành quyển Thượng trong bộ sách gồm 2 quyển có tên là Trùng khắc Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục, và cho khắc in vào đầu năm Kỷ Mùi (1859)[8].

Trong quyển Thượng, có dòng phụ chú: "Thất tập nhân danh, cựu bản Tiên Sơn tự" (tên người biên tập đã thất truyền, căn cứ theo bản cũ ở chùa Tiêu Sơn). Riêng quyển Hạ không phải là quyển tiếp nối Thiền uyển tập anh, mà là hai cuốn khác cũng nói về Thiền học Việt Nam, đó là cuốn Tam tổ thực lục (nói về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần) và cuốn Ngự chế Thiền điển thống yếu kế đăng lục (do thiền sư Như Sơn ở chùa Hồng Phúc, ấn hành năm 1734).

Ngoài ra trước khi in, hòa thượng Phúc Điền đã viết thêm tiểu sử của năm vị thiền sư sống gần ông nhất vào tác phẩm của Như Sơn, đồng thời cũng ghi chép thêm những điều ông nghe về việc truyền thừa của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần[9].